Ngày 02/02/2012, Chính phủ ban hành Nghị định 06/2012/NĐ-CP về sửa đổi, bổ sung một số điều của các Nghị định về hộ tịch, hôn nhân và gia đình và chứng thực. Trong đó chủ yếu sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 158/2005/NĐ-CP ngày 27 tháng 12 năm 2005 về đăng ký và quản lý hộ tịch. Điều 1 của Nghị định có một số điểm mới về đăng ký và quản lý hộ tịch ở cấp xã, phường, thị trấn và cấp quận, huyện cần quan tâm như:
- Thời hạn giải quyết một số thủ tục về hộ tịch được rút ngắn hơn so với trước, ví dụ: Thủ tục đăng ký kết hôn được thực hiện trong 03 ngày làm việc (trước đây là 05 ngày), trong trường hợp cần phải xác minh, thì thời hạn nói trên được kéo dài thêm không quá 05 ngày; thủ tục chấm dứt việc giám hộ được thực hiện trong 02 ngày (trước đây là 05 ngày), trong trường hợp cần phải xác minh, thì thời hạn nói trên được kéo dài thêm không quá 02 ngày. Thủ tục nhận cha, mẹ, con cũng được giải quyết trong 03 ngày làm việc, nếu cần xác minh thì cũng kéo dài thêm không quá 05 ngày. Nghị định Nghị định 06/2012/NĐ-CP cũng nêu rõ đối với những việc hộ tịch mà Nghị định số 158/2005/NĐ-CP quy định thời hạn giải quyết thì thời hạn được tính theo ngày làm việc. Đối với những việc hộ tịch mà Nghị định 158/2005/NĐ-CP không quy định thời hạn giải quyết, thì được giải quyết ngay trong ngày; nếu nhận hồ sơ sau 15 giờ thì trả kết quả trong ngày làm việc tiếp theo.
Về các giấy tờ cá nhân xuất trình khi đăng ký hộ tịch, Nghị định 06/2012/NĐ-CP quy định: Trong trường hợp hồ sơ đăng ký hộ tịch được gửi qua hệ thống bưu chính, thì các giấy tờ quy định phải là bản sao có chứng thực; trường hợp trực tiếp nộp hồ sơ thì nộp bản sao các giấy tờ nêu trên, kèm bản chính để đối chiếu hoặc bản sao có chứng thực. Trường hợp ủy quyền cho người khác làm thay các thủ tục đăng ký hộ tịch thì phải có văn bản ủy quyền được công chứng hoặc chứng thực hợp lệ. Nếu người được ủy quyền là ông, bà, cha, mẹ, con, vợ, chồng, anh, chị, em ruột của người ủy quyền thì không cần phải có văn bản ủy quyền. Để chứng minh các mối quan hệ trên thì người dân có thể nộp hộ khẩu, khai sinh hoặc những giấy tờ hợp lệ khác.
- Nghị định 06/2012/NĐ-CP cũng mở theo hướng cho phép người dân tự cam đoan. Nếu người dân muốn đăng ký lại việc sinh, tử, kết hôn thì phải nộp tờ khai và bản sao giấy tờ hộ tịch đã cấp trước đây. Nếu không còn giữ bản sao thì họ có thể tự viết bản cam đoan về việc đã đăng ký nhưng không còn lưu được sổ hộ tịch. Đối với việc đăng ký lại kết hôn và đăng ký lại việc tử, bản cam đoan phải có xác nhận của hai người làm chứng biết rõ về việc đã đăng ký. Chữ ký của hai người làm chứng phải được Ủy ban nhân dân cấp xã xác nhận. Người dân tự chịu trách nhiệm về nội dung bản cam đoan của mình. Lưu ý, việc đăng ký lại như trên có thể phát sinh một số hậu quả pháp lý như tranh chấp về tài sản, thừa kế… Do đó, người dân cần cẩn trọng và cam đoan đúng sự thật.
- Về yêu cầu thay đổi, cải chính hộ tịch, xác định lại dân tộc, xác định lại giới tính, bổ sung hộ tịch, người dân phải nộp Tờ khai (theo mẫu quy định), xuất trình bản chính Giấy khai sinh của người cần thay đổi, cải chính hộ tịch, xác định lại dân tộc, xác định lại giới tính, bổ sung hộ tịch và các giấy tờ liên quan để làm căn cứ cho việc thay đổi, cải chính hộ tịch, xác định lại dân tộc, xác định lại giới tính, bổ sung hộ tịch. Đối với trường hợp xác định lại giới tính, thì phải nộp Giấy chứng nhận y tế do Cơ sở khám bệnh, chữa bệnh được phép can thiệp y tế để xác định lại giới tính theo quy định của Nghị định số 88/2008/NĐ-CP ngày 05 tháng 8 năm 2008 của Chính phủ về xác định lại giới tính. Lưu ý: việc xác định lại giới tính chỉ áp dụng trong trường hợp người có khuyết tật bẩm sinh về giới tính hoặc giới tính chưa được định hình chính xác. Việc thực hiện chuyển đổi giới tính đối với những người đã hoàn thiện về giới tính là hành vi bị pháp luật nghiêm cấm. Việc thay đổi, cải chính hộ tịch, xác định lại dân tộc, xác định lại giới tính, bổ sung hộ tịch cho người chưa thành niên hoặc người mất năng lực hành vi dân sự được thực hiện theo yêu cầu của cha, mẹ hoặc người giám hộ. Đối với việc thay đổi họ, tên, cho người từ đủ 9 tuổi trở lên và xác định lại dân tộc cho người chưa thành niên từ đủ 15 tuổi trở lên, thì phải có ý kiến đồng ý của người đó thể hiện trong Tờ khai; trường hợp xác định lại dân tộc cho con dưới 15 tuổi phải nộp văn bản thỏa thuận của cha mẹ về việc xác định lại dân tộc cho con.
- Nghị định này sẽ có hiệu lực từ ngày 01/4/2012.
PHÒNG TƯ PHÁP QUẬN