Từ ngày thành lập cho đến nay Đảng ta tròn tám mươi tuổi. Khi ấy, thực dân Pháp hung bạo và giai cấp phong kiến hèn hạ đã cấu kết với nhau thống trị nước ta, dân ta một cổ hai tròng, thân phận nô lệ bị đọa đày áp bức, đau khổ và căm hờn không kể xiết.
Giai cấp công nhân chết mòn nơi đồn điền hầm mỏ. Giai cấp nông dân bị cướp mất đất ruộng, đầu tắt mặt tối, tô tức đè nặng, bát khoai lát sắn chan nước mắt. Trí thức, tiểu thương, tiểu chủ lận đận chìm nổi bấp bênh. Thanh niên thì tương lai mờ mịt. Tầng lớp giàu có tuy đời sống khấm khá, nhưng cũng là những kẻ chịu chung cảnh mất nước. Sĩ phu yêu nước tràn đầy nhiệt huyết, song trăm lần dấy nghĩa thì trăm lần thất bại. Có chí sĩ định dựa vào Nhật, có nhà canh tân định dựa vào Hà Lan để đuổi Pháp, nhưng làm sao có thể dựa vào đế quốc mà đánh được đế quốc, dựa vào bọn đi áp bức dân tộc mà giành được độc lập dân tộc
Quốc dân đảng đứng trên lập trường tư sản, muốn giương cao ngọn cờ cứu nước của giai cấp tư sản, nhưng mới trải qua một vài trận đã bị thực dân và bọn tay sai hạ ngã không thể nào gượng dậy. Giữa hoàn cảnh mịt mờ đen tối ấy, từ trong phong trào yêu nước rộng lớn kết hợp với phong trào công nhân quả cảm, tự giác nhận lấy sứ mệnh lịch sử, Đảng ta đã ra đời.
Chúng ta đội ơn lớp lớp thế hệ anh hùng, kinh qua những tấm gương lẫm liệt của các vị tiền bối đã truyền lại cho chúng ta tinh thần gan góc của dân tộc. Chúng ta khắc sâu công ơn sinh thành của giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, tầng lớp trí thức yêu nước và cách mạng, cùng với toàn dân đã nuôi nấng, đùm bọc, giáo dục Đảng ta, từ thuở mới lọt lòng và trong suốt 80 năm.
Năm nay, nhân dân ta và bè bạn quốc tế kỷ niệm lần thứ 120 năm ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh kính mến. Rời Tổ quốc yêu dấu, Người đã ra đi tìm đường cứu nước. Đưa tiễn Người là nỗi hận mất nước hơn bốn mươi năm và cao trào chống sưu, chống thuế rộng lớn, từ đấu tranh dân sinh rồi biến thành bạo động chính trị năm 1908.
Với hai bàn tay trắng, Người làm đủ nghề, nấu bếp, phu tàu, thợ ảnh, viết báo, phiên dịch, lấy lao động của chính mình tự nuôi sống để làm cách mạng.
Người đã vượt hàng vạn cây số biển, ngang qua năm châu lục, đến các trung tâm của chủ nghĩa đế quốc, các hang cùng ngõ hẻm của áp bức và bóc lột. Người đã sống qua hai cuộc đại chiến thế giới do chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa phát xít gây nên, tận mắt chứng kiến cuộc đại suy thoái 1929-1933 của tư bản độc quyền, trước hết là tư bản độc quyền Mỹ, từ đó hiểu sâu tận gốc rễ chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa đế quốc, con đỉa hai vòi.
Người đã đặt chân đến những nơi in dấu các nền văn minh, tìm hiểu khoa học, văn chương, nghệ thuật, tích lũy cho mình trí tuệ và văn hóa của nhân loại. Với tư cách là người cộng sản đầu tiên của các dân tộc bị áp bức, Người tổ chức phong trào đấu tranh của các dân tộc thuộc địa, xuất bản báo Người cùng khổ, tham gia đội quân quốc tế, các hoạt động của công nhân, nông dân, thanh niên thế giới. Học tập không mệt mỏi trong trường đời và trường tranh đấu, Người đã tự rèn luyện trở thành một chiến sĩ dày dạn của giai cấp công nhân.
Yêu nước nồng nàn, như chính tên Người, Nguyễn Ái Quốc, kết tinh sâu sắc bản chất giai cấp công nhân trong sáng, Người đã gắn bó máu thịt với nhân dân, vì giai cấp công nhân và nhân dân lao động, vì dân tộc và vì con người, trước hết là những con người cùng khổ. Người đã hy sinh chiến đấu suốt đời, lấy sức ta mà giải phóng cho ta, dựa vào Tổ quốc để giải phóng Tổ quốc, dựa vào giai cấp công nhân và nhân dân lao động để giải phóng giai cấp công nhân và nhân dân lao động, dựa vào con người để giải phóng con người.
Là người Việt Nam đầu tiên từ lòng yêu nước mà đến với chủ nghĩa cộng sản, Người đã nhận ra sâu sắc sự nghiệp giải phóng dân tộc trong thời đại ngày nay, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên toàn thế giới bắt đầu từ Cách mạng tháng Mười Nga, rằng: thời đại quá độ lên chủ nghĩa xã hội cũng là thời đại giải phóng các dân tộc bị áp bức, muốn giải phóng dân tộc thì phải làm cách mạng vô sản.
Cách mạng xã hội chủ nghĩa thắng lợi không những tiếp tục củng cố sự nghiệp giải phóng đất nước về chính trị mà còn giải phóng một bước cao hơn về kinh tế, xóa bỏ một bước cao hơn áp bức bóc lột đối với giai cấp công nhân và nhân dân lao động, thực hiện trên một chất lượng mới dân chủ, công bằng, tự do, bình đẳng, đem lại nền văn minh chưa từng có trên Tổ quốc, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, nền văn minh xã hội chủ nghĩa với lực lượng sản xuất tiên tiến và hiện đại, với quan hệ mới giữa người và người, “một người vì mọi người, mọi người vì một người”, quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa.
Cách mạng xã hội chủ nghĩa là sự thực hiện cao nhất, bảo vệ hiệu quả nhất độc lập dân tộc, nền văn hóa dân tộc, đưa dân tộc ta từ một nền kinh tế nghèo nàn lạc hậu, trở thành một dân tộc khoa học, trí tuệ, một dân tộc hiện đại, sánh vai cùng các cường quốc năm châu, một dân tộc xã hội chủ nghĩa trong một thế giới mà chủ nghĩa xã hội, trải qua trăm ngàn thử thách, ngày càng giành thêm những thắng lợi mới.
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là đường lối nhất quán của Đảng ta, Nhà nước ta và nhân dân ta từ ngày thành lập Đảng. Kiên định và thực hiện sáng tạo đường lối nhất quán ấy, mới 15 tuổi với 5000 đảng viên, Đảng ta đã lãnh đạo cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám thành công, thành lập Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á. Đảng ta đã lãnh đạo thắng lợi các cuộc kháng chiến cứu nước, giành độc lập dân tộc và bảo vệ độc lập dân tộc, kéo dài và liên tục suốt 45 năm, lãnh đạo sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nửa nước (miền Bắc xã hội chủ nghĩa) và cả nước trong một hoàn cảnh rất ngặt nghèo, vừa kháng chiến vừa xây dựng, vừa có hòa bình vừa có chiến tranh, bị kẻ thù bao vây cô lập.
Đảng đã đề xướng và lãnh đạo sự nghiệp đổi mới mô hình kinh tế ngay trong khi cuộc chiến đấu giúp bạn Campuchia hồi sinh dân tộc đang diễn ra ở giai đoạn quyết định, giữa lúc hệ thống xã hội chủ nghĩa tan rã, tình đoàn kết giữa các nước anh em chưa khôi phục được, phong trào xã hội chủ nghĩa lâm vào tình trạng suy thoái nghiêm trọng nhất trong lịch sử của mình. Sự nghiệp đổi mới thu được thành tựu có ý nghĩa lịch sử, mà thành tựu có ý nghĩa lịch sử nhất là thay đổi mô hình kinh tế cũ (kế hoạch hóa tập trung) sang mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà vẫn giữ vững chế độ xã hội chủ nghĩa.
Sự giữ vững chế độ xã hội chủ nghĩa không những đảm bảo việc chuyển đổi mô hình kinh tế thắng lợi, củng cố sự ổn định chính trị-xã hội, đánh bại âm mưu có hệ thống của các thế lực thù địch hòng xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa nước ta, đẩy nước ta trượt vào quỹ đạo chế độ tư bản như ở một số nơi khác, mà còn là nhân tố có ý nghĩa quyết định để ta tiếp tục xây dựng thể chế kinh tế theo mô hình mới, giữ vững độc lập dân tộc, bản sắc văn hóa dân tộc, truyền thống văn hiến lâu đời của dân tộc ta.
Chiến thắng rực rỡ trong các cuộc kháng chiến chống xâm lược kế liền nhau và kéo dài 45 năm, giữ vững chế độ xã hội chủ nghĩa, chuyển đổi mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thắng lợi, không ngừng giương cao ngọn cờ hòa bình, Việt Nam là bạn và đối tác tin cậy của các nước, vì hợp tác và phát triển, chính đó là nguồn gốc nâng cao vị thế của nước ta trên trường quốc tế và niềm tin vững chắc của nhân dân các dân tộc Việt Nam đối với Đảng ta.
Năm nay, nhân dân cả nước và bạn bè quốc tế trân trọng kỷ niệm 1000 năm Thăng Long- Hà Nội. 50 năm về trước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói với Hà Nội: Hà Nội phải làm thế nào để trở thành Thủ đô xã hội chủ nghĩa. Muốn như thế thì mỗi một xí nghiệp, mỗi một đơn vị bộ đội, mỗi một trường học, mỗi một đường phố, mỗi một cơ quan và mỗi một nông thôn ở ngoại thành phải thành một pháo đài của chủ nghĩa xã hội.
Những ngày đánh Mỹ cực kỳ ác liệt, Người đã nói: Mỹ chỉ chịu thua sau khi đã thua trên bầu trời Hà Nội. Lời dạy của Người đã cổ vũ nhân dân Thủ đô và cả nước quyết chiến quyết thắng trận Điện Biên Phủ trên không lừng lẫy. Dưới con mắt của bạn bè, Việt Nam đã trở thành phẩm giá và lương tâm của thời đại.
Nắm vững đường lối nhất quán độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân phấn đấu đến năm 1996 vượt qua cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội kéo dài nhiều năm, hoàn thành chặng đường đầu của thời kỳ quá độ. Và phấn đấu đến năm 2020 hoàn thành chặng đường thứ hai đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại đúng với định hướng xã hội chủ nghĩa.
Chủ nghĩa đế quốc hình thành và phát triển bằng cướp bóc thuộc địa, xâm chiếm thị trường, gắn liền với chiến tranh phi nghĩa và khủng hoảng kinh tế.
Cuối thế kỷ 19, các đế quốc già đã xâm chiếm xong thuộc địa. Cuộc đại chiến thế giới 1914-1918 là cuộc chiến tranh giữa các đế quốc trẻ, kẻ cầm đầu là Đức, chống lại các đế quốc già để chia lại thuộc địa, chia lại thị trường bóc lột. Đế quốc Mỹ đã tìm cách đứng ngoài cuộc chiến ấy, nhờ đó không tốn của hao người vì chiến tranh đế quốc mà lại còn chiếm được thêm thuộc địa, kiếm thêm những món lợi lớn qua buôn bán vũ khí, dụng cụ quân sự và lương thực thực phẩm. Thực hiện lý thuyết thị trường tự do, thúc đẩy sự phát triển của tư bản độc quyền, bóc lột siêu lợi nhuận, lợi dụng thế yếu của các đế quốc khác, nhanh chóng mở mang và tận dụng khoa học - công nghệ tiên tiến, kích động chủ nghĩa cá nhân cực đoan, Mỹ trở thành một nước có kinh tế đế quốc chủ nghĩa mạnh vào bậc nhất thế giới

Nhưng, tư bản độc quyền dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân tư liệu sản xuất, vốn chứa đựng trong lòng nó mâu thuẫn ngày càng sâu sắc với nền sản xuất xã hội hóa ngày càng cao. Cuộc đại khủng hoảng 1929-1933 đã lột trần bộ mặt tàn bạo của chủ nghĩa tư bản, phơi bày những mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản, là sự tích lũy toàn bộ những ngọn núi lửa bất công, bóc lột, xấu xa, lừa bịp của chủ nghĩa đế quốc Mỹ trong mấy thế kỷ, là mầm mống phát sinh cuộc đại chiến thế giới thứ hai 1939-1945. Đại chiến thế giới lần thứ hai bắt nguồn từ chủ nghĩa đế quốc, do chủ nghĩa đế quốc phát động.
Để bảo vệ lợi ích giai cấp của tư bản độc quyền và đảm bảo cho tư bản độc quyền phát triển, giới cầm quyền với các nhà lý thuyết kết với nhau, đồng tình giấu kín nguyên nhân gốc rễ của cuộc đại khủng hoảng, đổ tội hết cho kinh tế thị trường tự do mà họ gọi bóng bẩy là bàn tay vô hình và tìm cách cứu vãn bằng thuyết thị trường tự do có sự điều tiết của nhà nước, được họ gọi là bàn tay hữu hình.
Nhưng, sau nhiều cuộc khủng hoảng chu kỳ, cuộc khủng hoảng lớn vào thập kỷ 70 của thế kỷ trước lại đã làm phá sản lý thuyết cứu nguy ấy. Chủ nghĩa đế quốc lại nói: “không ai vỗ tay bằng một tay”, nhưng bàn tay vô hình phải nhiều hơn, bàn tay hữu hình phải ít hơn. Lý thuyết kinh tế thị trường tự do mới ra đời. Nhưng đến cuối năm 2007 cuộc khủng hoảng trầm trọng lại diễn ra, và cũng xuất phát từ nước Mỹ, nơi có lực lượng sản xuất, khoa học công nghệ, tiềm năng kinh tế-tài chính, lực lượng quân sự mạnh nhất thế giới hiện nay.
Qua mỗi lần khủng hoảng kinh tế, tư bản độc quyền càng tích lũy thêm vốn tư bản. Nhà nước tư bản độc quyền lại can thiệp vào nền kinh tế, thực chất là cứu vãn lợi ích sống còn của tư bản độc quyền. Giai cấp công nhân, nhân dân lao động gánh hậu quả lạm phát và thất nghiệp, đời sống càng khó khăn, nền kinh tế các nước nghèo, chậm phát triển và đang phát triển chịu những hệ lụy xấu. Còn tư bản lũng đoạn ngày càng lũng đoạn hơn, độc quyền hơn, giàu có và xa hoa hơn.
Chủ nghĩa đế quốc tuyên bố: “chủ nghĩa tư bản là vĩnh viễn”, nhưng thực tiễn đã làm rõ ràng: chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc là bóc lột giá trị thặng dư, lợi dụng khoa học - công nghệ cướp bóc thuộc địa, xâm chiếm thị trường, cá lớn nuốt cá bé, chèn ép các nước nghèo, đòi mở cửa thị trường cho hàng hóa công nghiệp của họ, nhưng lại dùng mọi thủ đoạn làm rào cản thương mại, bảo hộ mậu dịch có lợi cho tư bản độc quyền, lợi dụng “toàn cầu hóa, tự do hóa” để trói buộc và thúc đẩy thế giới đi theo “hình ảnh của họ”, tư bản hóa toàn cầu.
Nhưng, trên tiến trình lịch sử, qua mỗi lần khủng hoảng, tư bản độc quyền, cầm đầu là Mỹ, lại suy yếu thêm một bước. Họ tìm cách khắc phục, nhưng chỉ khắc phục được triệu chứng, không thể khắc phục được nguyên nhân gốc rễ

Các cuộc khủng hoảng chu kỳ của chủ nghĩa tư bản cùng với hai cuộc đại khủng hoảng 1929-1933 và cuối năm 2007 cho đến nay vẫn chưa chấm dứt, làm chúng ta nhớ lại lời của Mác về khủng hoảng của chủ nghĩa tư bản: “Lịch sử ban đầu xảy ra như một thảm kịch, sau đó lại lặp lại chính nó như một tấn hài kịch”.
Chủ nghĩa tư bản không thể nào khắc phục được khủng hoảng chu kỳ và đại khủng hoảng. Cuộc đại khủng hoảng thứ nhất (1929-1933) là một thảm kịch. Cuộc đại khủng hoảng diễn ra từ cuối năm 2007 lại lặp lại tấn thảm kịch xảy ra trước đó 74 năm như một tấn hài kịch, tấn trò đời luẩn quẩn của chủ nghĩa tư bản. Và rất có thể không cần đến 74 năm mà sớm hơn, dù cho tư bản độc quyền thế giới còn tiềm lực kinh tế và đang tìm lý thuyết kinh tế mới để phục hồi, song từ trong lòng nó lại bùng phát một cuộc đại khủng hoảng nữa, một tấn bi hài kịch mới.
Trải qua các cuộc khủng hoảng chu kỳ của chủ nghĩa tư bản, cùng với hai cuộc đại chiến thế giới ( 1914-1918) (1939-1945), thế giới cùng chứng kiến sự kiện vĩ đại: Cách mạng Tháng 10 Nga (1917) và hệ thống xã hội chủ nghĩa ra đời (1945), mở đầu thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội.
Thực tiễn đã chứng minh dù còn tiềm lực kinh tế tài chính, nắm được khoa học- công nghệ, có bộ máy cầm quyền đồ sộ, chủ nghĩa tư bản vẫn không thể nào khắc phục được khủng hoảng vốn do nó sinh ra. Chủ nghĩa tư bản không phải là sự lựa chọn cuối cùng của lịch sử, chủ nghĩa tư bản sẽ bị thay thế bởi một hình thái kinh tế xã hội phù hợp với sự vận động của lịch sử đó là chủ nghĩa xã hội.
Chủ nghĩa xã hội, các Đảng Cộng sản, Đảng công nhân trên thế giới sẽ từng bước được phục hồi, tuy còn gặp khó khăn nhưng đã và đang củng cố. Giai cấp công nhân và Đảng của mình cùng với các dân tộc mới được giải phóng sẽ càng nhận rõ sứ mệnh lịch sử cao cả và quyết tâm làm tròn trách nhiệm thời đại, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội.